Tham quan Chùa Trấn Quốc – Ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội

1701

Thủ Đô Hà Nội được biết đến là một vùng đất lịch sử lâu đời không chỉ có danh lam thắng cảnh mà còn là một điểm du lịch tâm linh hấp dẫn với hàng ngàn ngôi đình, chùa cổ. Một trong số đó là chùa Trấn Quốc – Ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội.

1. Lịch sử chùa Trấn Quốc

Chùa Trấn Quốc thuộc phường Yên Phụ – quận Tây Hồ – Hà nội .
Đây là ngôi chùa cổ nhất Hà Nội , chùa được xây dựng từ thời Lý Nam Đế ( 541 – 547 ), có tên là Khai Quốc .

Chùa được dựng tại thôn Yên Hoa ( sau được đổi là Yên Phụ ) trên một bãi cạnh sông Hồng. Đến đời Lê Thái Tông ( 1440 – 1442 ) được gọi là chùa An Quốc. Đến thời Lê Kinh Tông ( 1600 – 1618 ) do bãi sông bị lở, chùa được dời vào một hòn đảo nhỏ trong hồ Tây gọi là Kim Ngư (đảo cá vàng) là địa điểm ngày nay. Nơi này đã được các vua nhà Lý dựng cung Thúy Hoa và đời Trần dựng điện hàm Nguyên dùng làm nơi hóng mát, xem đua thuyền, đánh cá.

Tham quan Chùa Trấn Quốc – Ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội
Tham quan Chùa Trấn Quốc – Ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội

Đến đời vua Lê Hy Tông (1680 – 1705), chùa được đổi tên gọi là Trấn Quốc. Năm 1842 vua Thiệu Trị tới thăm và đổi tên là Trấn Bắc nhưng nhân dân vẫn quen gọi là chùa Trấn Quốc.

Vào khoảng đời Lê Thần Tông (1619- 1643), dân hai làng Yên Phụ và Yên Quang đắp đập Cổ Ngư (ngày nay là đường Thanh Niên) chắn ngang Hồ Tây (ngăn thành hồ Trúc Bạch) nhân đó mới đắp luôn con đường đi vào chùa.

Chùa Khai Quốc vào thời Lý là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long, là nơi thụ lý giáo huấn của nhiều thiền sư thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông.

Thái hậu Ỷ Lan cũng mở tiệc chay đãi các thiền sư kê cứu kinh Phật ở nơi đây. Từ thời Ngô Quyền thiền sư Văn Phong thuộc thế hệ thứ tư dòng thiền Vô ngôn Thông đã trụ trì tại chùa. Học trò của thiền sư Văn Phong là thiền sư Khuông Việt , thụ nghiệp ở chùa Khai Quốc, đã nổi tiếng trong cả nước, được vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành mời về Hoa Lư làm cố vấn tối cao của triều đình.

2. Kiến trúc chùa Trấn Quốc

Chùa Trấn Quốc được tu sửa vào những năm 1624; 1628 đến năm 1639 thì được dựng thêm hậu đường, cổng lầu, hành lang tả hữu, quy mô to rộng chạm trổ tinh xảo…

Đến chùa, du khách không chỉ lễ Phật cầu kinh mà còn được đắm mình vào không gian của nghệ thuật của thiên nhiên hài hòa, thấy hồn mình tĩnh tại giữa những dấu xưa mang hồn đất Việt ngàn đời.

Đến bây giờ chùa Trấn Quốc bao gồm ba nếp nhà tiền đường, thiêu hương và thượng điện nối liền nhau theo hình chữ “công” (工), hai bên là hành lang tả vu và hữu vu. Phía sau thượng điện là gác chuông, nhà Tổ và nhà bia.

Bước qua tam quan, ta thấy rõ ngọn tháp cao 11 tầng màu nâu đỏ sừng sững vượt lên trên bức tường ngăn, trong mỗi tầng có 6 pho tượng trắng toát. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý.

Rẽ trái vào cửa ngách đầu tiên, du khách lần đầu đến thăm sẽ ngạc nhiên trước cả một vườn mộ cổ quy tụ xung quanh ngôi tháp lục giác, minh chứng cho lịch sử lâu đời của chùa Trấn Quốc.

Vườn tháp nằm liền với một sân gạch có hòn non bộ, hai bên là nhà bia và nhà Tổ, phía giữa chắn bởi mặt sau của toà nhà hai tầng với gác chuông bằng gỗ chạm ở trên. Trong nhà Tổ rộng 5 gian thì 3 gian chính dành để thờ các sư Tổ, còn 2 gian đầu hồi thờ Mẫu; trên các ban thờ có đặt nhiều pho tượng sinh động.

Đi thẳng con đường lát gạch từ tam quan men theo ven hồ, du khách sẽ đến sân tiền đường ở phía tây-nam. Trước sân có một cây bồ đề tán lá xum xuê, chiết từ gốc cổ thụ tại Bồ Đề Đạo Tràng nơi Đức Phật hành đạo cách đây hơn 25 thế kỷ. Đó chính là món quà tặng của Tổng thống Ấn Độ Rajendra Prasad khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959.

Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: “Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp”.

Bồ đề được xem là loài cây thiêng liêng trong Phật giáo. Tương truyền xưa kia, thái tử Tất-đạt-đa Cồ đàm đã ngồi thiền định dưới gốc cây mà đạt tới chân lý, đạt tới sự giác ngộ để trở thành Phật. Cây bồ đề ở chùa Trấn Quốc còn được gọi là “cây ngoại giao” vì đây là cây được Tổng thống Ấn Độ trồng để đáp lễ việc Bác Hồ đã trồng tặng Ấn Độ một cây đại (cũng là cây nhà Phật) trong chuyến thăm Ấn Độ trước đó.

Cây bồ đề này là hậu duệ của cây bồ đề Tổ ở làng Bodh Gaya, bang Bihar, Ấn Độ, nơi Đức Phật đã giác ngộ hoàn toàn sau 49 ngày thiền định. Hơn 2.500 năm qua, cây bồ đề Tổ vẫn tràn đầy sinh lực và tươi tốt. Mỗi năm có hàng triệu lượt du khách từ khắp năm châu về đó thành kính chiêm bái dưới gốc cây bồ đề thiêng liêng này.

Ở Việt Nam, hàng năm đã có hàng ngàn Phật tử tìm về nơi Đức Phật giác ngộ, xin lá cây bồ đề ban phát tài lộc, phúc đức cho chúng sinh. Tuy nhiên, do số lá cây sinh ra có hạn nên đa phần lá cây đó không có xuất xứ từ cây bồ đề Tổ.

Sau lễ đón nhận món quà thiêng liêng của Tổng thống Ấn Độ, cây bồ đề hậu duệ trên đã được chuyển về chùa Trấn Quốc. Trong các chuyến thăm Việt Nam sau này, nhiều nguyên thủ của Ấn Độ như Tổng thống Pratibha Patil, Phó Tổng thống Mohammad Hamid Ansari đều đã đến thăm và chụp ảnh dưới gốc cây bồ đề này.

Hơn nửa thế kỉ qua (1959 – 2013), nhờ sự chăm sóc của các vị trụ trì, cây bồ đề chùa Trấn Quốc ngày một xanh tốt, tỏa bóng mát xuống với muôn dân. Mỗi năm, cây sinh ra hàng vạn chiếc lá. Để thỏa mãn yêu cầu chúng sinh cả nước, Hòa thượng trụ trì chùa Trấn Quốc Thích Thanh Nhã đã tổ chức cho các phật tử thực hiện ý tưởng ép khô lá cây bồ đề làm kỉ vật tặng cho du khách mỗi khi hành hương về đây.

Cây Bồ đề chùa Trấn Quốc
Cây Bồ đề chùa Trấn Quốc

Bên cạnh đó chùa Trấn Quốc được bao bọc bởi cây cối um tùm và Hồ Tây quanh năm xanh nước với những đợt sóng dâng cao bất ngờ. Mỗi khi trời trong, đỉnh Ba Vì xa xăm in bóng. Buổi sớm sương mờ hoặc chiều tà đỏ ối rồi đêm trăng vàng dịu… tất cả đều gợi lên thi hứng. Các danh sĩ như Nguyễn Huy Lượng, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Bà huyện Thanh Quan.. đã từng dạo quanh đây và để lại những tác phẩm tuyệt vời.

Hiện trong chùa còn 14 tấm bia đá, trong đó có bia của trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính (1587 – 1693) và tiến sĩ Phạm Quý Thích (1760 – 1825). Các văn bia đã ghi lại nhiều tư liệu quý và mô tả đầy đủ những lần tu tạo chùa trong các năm 1624, 1628, 1639, 1815, 1821, 1842.

Dọc theo chính điện với nhiều tầng cửa võng chạm trổ tinh xảo có bài trí một hệ thống đầy đủ các tượng Phật và Bồ tát dát vàng, hai cửa vào thiêu hương đều có tượng Kim Cương đứng trấn. Gian bên trái tiền đường thờ tượng Quan Vũ, Châu Sương và gian bên phải thờ tượng Đức Ông cùng các thị giả.

Chùa Trấn Quốc nằm trên đồi đất phía đông-bắc của Hồ Tây, thuộc đất làng Yên Phụ, nơi có ngôi đình với điện thờ thần Linh Lang. Vào dịp lễ hội mùa xuân hằng năm dân làng tổ chức đám rước từ đình sang chùa rồi từ chùa về làng bằng cả một đoàn thuyền nối nhau cờ reo trống thúc tưng bừng.

Trải qua bao cuộc bể dâu, Trấn Quốc vẫn là một trong những ngôi chùa thiêng liêng bậc nhất đối với Phật tử Việt Nam. Ngôi chùa cổ nhất của thủ đô Hà Nội đã được nhà nước xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia ngay từ đợt đầu (1962).

3. Chùa Trấn Quốc mở cửa lúc mấy giờ? Giá vé vào cổng là bao nhiêu?

Hàng này, chùa Trấn Quốc mở cửa từ 8h sáng và đóng cửa vào lúc 4h chiều để chào đón những du khách đến thắp hương, hành lễ tại chùa. Giá vé vào chùa tham quan là khoảng 5.000 đồng/ người/ lượt.

Hàng năm, chùa là nơi diễn ra rất nhiều những lễ hội phật giáo lớn. Cứ mỗi dịp đầu xuân, chùa lại tổ chức lễ dâng sao giải hạn, thu hút rất nhiều người dân đến đăng ký giải hạn đầu năm cho gia đình. Nếu du khách nào muốn đăng kí có thể đến trực tiếp chùa hoặc có thể gọi điện đến số điện thoại của chùa để đăng ký. Cùng với đó là rất nhiều lễ hội phật lớn như đại lễ phật đản, thu hút rất nhiều người đi lễ.

Bài viết trên của tạp chí du lịch đã giới thiệu đến độc giả đôi nét về ngôi chùa cổ nhất Hà Nội – chùa Trấn Quốc đặc biệt là kiến trúc độc đáo nơi đây hy vọng sẽ giúp các bạn mở rộng hiểu biết và có một chuyến tham quan đáng nhớ nhé!